Thách thức cho doanh nghiệp trong nước khi Việt Nam buộc phải gỡ bỏ yêu cầu ENT

Tài Nguyên
    Thách thức cho doanh nghiệp trong nước khi Việt Nam buộc phải gỡ bỏ yêu cầu ENT
    Ngày đăng: 31/07/2023

     

     

    1. Về yêu cầu ENT

    ENT, viết tắt của Economic Need Test, là hoạt động kiểm tra nhu cầu kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam, áp dụng đối với các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (“doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”) thành lập cơ sở bán lẻ thứ hai trở lên tại Việt Nam.

    Đúng với tên gọi của mình, thủ tục ENT nhằm kiểm tra nhu cầu kinh tế của thị trường trong nước, là cơ sở cho việc cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng thị trường. Cụ thể, trong quá trình thực hiện hoạt động này, cơ quan có thẩm quyền sẽ đánh giá, xem xét thận trọng và kỹ lưỡng mức độ cần thiết, nhu cầu của thị trường trong nước tại một khu vực thị trường địa lý nhất định và khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của thị trường trong nước dựa trên các tiêu chí được pháp luật quy định, từ đó, đưa ra quyết định về việc cấp phép hoặc không cấp phép cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập thêm cơ sở bán lẻ, ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất đã thành lập tại Việt Nam[1].

     

    2. Lộ trình gỡ bỏ yêu cầu ENT

    Mặc dù trong các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (“WTO”) từ đầu năm 2007 đã đề cập đến hoạt động ENT khi thành lập cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất) khi quy định về điều kiện tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài[2], tuy nhiên, trong Nghị định 23/2007/NĐ-CP[3] được ban hành ngày 12/02/2007 lại không đề cập đến hoạt động này. Cho đến khi Thông tư 08/2013/TT-BCT[4] được ban hành ngày 22/4/2013, yêu cầu về ENT mới chính thức được đề cập trong quy định của pháp luật Việt Nam. Mặc dù vậy, những quy định về ENT, bao gồm các trường hợp phải ENT, các tiêu chí ENT vẫn còn khá sơ sài và nhìn chung, vẫn dựa vào cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Ngày 15/01/2018, Nghị định 09/2018/NĐ-CP chính thức có hiệu lực, theo đó, Nghị định này đã cụ thể hóa các quy định về ENT, giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận biết rõ hơn về hoạt động này, từ đó chuẩn bị đầy đủ hồ sơ và điều kiện cần thiết theo yêu cầu, đồng thời giúp các cơ quan có thẩm quyền có căn cứ rõ ràng để kiểm tra nhu cầu kinh tế.

    Ngày 14/01/2019, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (“CPTPP”) chính thức có hiệu lực tại Việt Nam[5] và sau đó, vào ngày 01/8/2020, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (“EVFTA”) cũng chính thức có hiệu lực[6]. Hai Hiệp định này được xem là hai Hiệp định thương mại tự do có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay. Một trong những cam kết mà Việt Nam đưa ra trong hai Hiệp định này là việc loại bỏ yêu cầu ENT đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi thành lập cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất) sau 05 năm kể từ khi các Hiệp định này có hiệu lực[7]. Theo đó, việc loại bỏ ENT sẽ bắt đầu kể từ ngày 14/01/2024 đối với CPTPP và từ ngày 01/08/2025 đối với EVFTA.

     

    3. Thách thức cho các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam

    Với quy mô dân số lớn và sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, Việt Nam vốn luôn là thị trường hấp dẫn đối với các thương hiệu bán lẻ nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã thành lập các doanh nghiệp tại Việt Nam để kinh doanh trong mảng bán lẻ từ cách đây nhiều năm, cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nội địa. Có thể kể đến như Big C (hiện nay là Tops Market), Mega Market, Lotte, Uniqlo, Family Mart… những thương hiệu đã khẳng định tên tuổi tại thị trường Việt Nam.

     

     

    Tại thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi muốn thành lập thêm cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất) thì phải thực hiện ENT. Yêu cầu ENT rõ ràng đã giới hạn khả năng mở rộng thị trường của các doanh nghiệp này, nếu qua quá trình ENT, cơ quan có thẩm quyền xác định tại khu vực mở cơ sở bán lẻ, nguồn cung của thị trường trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu tương ứng, việc thành lập thêm cơ sở bán lẻ có thể sẽ không được cho phép. Ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền còn dựa vào nhiều tiêu chí khác để kiểm tra nhu cầu kinh tế, có thể kể đến như[8]: Quy mô của khu vực thị trường địa lý chịu ảnh hưởng khi cơ sở bán lẻ hoạt động; Số lượng các cơ sở bán lẻ đang hoạt động trong khu vực thị trường địa lý; Tác động của cơ sở bán lẻ tới sự ổn định của thị trường và hoạt động kinh doanh của các cơ sở bán lẻ, chợ truyền thống trong khu vực thị trường địa lý; Ảnh hưởng của cơ sở bán lẻ tới mật độ giao thông, vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy trong khu vực thị trường địa lý; Khả năng đóng góp của cơ sở bán lẻ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực thị trường địa lý, cụ thể: (i) Tạo việc làm cho lao động trong nước; (ii) Đóng góp cho sự phát triển và hiện đại hóa ngành bán lẻ trong khu vực thị trường địa lý; (iii) Cải thiện môi trường và điều kiện sống của dân cư trong khu vực thị trường địa lý; và (iv) Khả năng và mức độ đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Tất cả những yếu tố này tạo nên rào cản nhất định cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

    Tuy nhiên, kể từ thời điểm mà các quy định về ENT được gỡ bỏ, những lợi thế nổi bật mà doanh nghiệp nội địa có được so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cơ bản sẽ không còn (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn phải thực hiện thủ tục cấp phép thành lập cơ sở bán lẻ, tuy nhiên không còn phải thực hiện ENT), hay nói cách khác, doanh nghiệp nội địa có thể phải đối diện với nhiều thách thức, có thể kể đến như:

    Thứ nhất, với ưu thế sẵn có về nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuận lợi đầu tư mở rộng thị trường mà không vướng phải các rào cản trong việc kiểm tra nhu cầu kinh tế tại Việt Nam. Việc sở hữu nhiều cơ sở bán lẻ giúp các thương hiệu này tăng độ nhận diện trong mắt khách hàng, dễ dàng đưa sản phẩm của mình tiếp cận đến nhiều đối tượng khách hàng hơn.

    Thứ hai, đa phần những thương hiệu bán lẻ nước ngoài tại Việt Nam đều là những thương hiệu danh tiếng, đã có chỗ đứng nhất định tại thị trường nước ngoài. Do đó, nguồn lực phi tài chính của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sở hữu các thương hiệu này cũng rất đáng kể, đơn cử như sự đa dạng về nguồn hàng, lợi thế giá cả đầu vào đều là những ưu thế mà không phải doanh nghiệp nội địa nào cũng có được. Với xu hướng chuyển dịch trong thói quen mua sắm của người tiêu dùng như hiện nay, từ việc mua sắm tại các siêu thị, đại siêu thị sang các cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên dụng, việc sở hữu nhiều cơ sở bán lẻ với sự đa dạng trong từng mặt hàng là một lợi thế vô cùng lớn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

    Thứ ba, một thách thức mà các doanh nghiệp nội địa cần thực sự quan tâm đến từ việc lĩnh vực bán lẻ vẫn luôn là một trong những lĩnh vực có hoạt động mua bán và sáp nhập diễn ra sôi nổi[9]. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thông qua các thương vụ mua bán và sáp nhập, từ đó trực tiếp hoặc gián tiếp tăng số lượng sở hữu các cơ sở bán lẻ của mình.

    Mặc dù vậy, việc gỡ bỏ yêu cầu ENT cũng cho thấy Việt Nam đã và đang sẵn sàng cho quá trình hội nhập sâu và rộng hơn vào cuộc chơi chung của thế giới, tại đây, những doanh nghiệp nội địa sẽ được kiểm chứng bởi những “bài kiểm tra” hết sức khốc liệt về sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, từ đó, chọn lọc ra những thương hiệu bán lẻ đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường, trực tiếp nâng cao chất lượng sản phẩm cung ứng đến người tiêu dùng. Đồng thời, với những nhà đầu tư đến từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển như Liên minh Châu Âu (đối với EVFTA) và Australia, Canada, Nhật Bản, Singapore,… (đối với CPTPP), doanh nghiệp nội địa có nhiều cơ hội để hợp tác, tận dụng những lợi thể của các đối tác đến từ các quốc gia này để phát triển thương hiệu của mình tại Việt Nam.

     

    Tóm lại, yêu cầu về ENT chỉ còn hiệu lực trong một thời gian ngắn, do đó, các doanh nghiệp nội địa cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về chiến lược hoạt động để sẵn sàng đón nhận các thử thách đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian sắp tới. Song song với đó, doanh nghiệp nội địa cũng nên có những thay đổi, tự làm mới mình để nâng cao “sức đề kháng” của doanh nghiệp cũng như trở nên giá trị hơn trong quá trình hợp tác với các đối tác nước ngoài.

     

     

     


    [2] Cam kết 318/WTO/CK ngày 27/10/2006.

    [4] Thông tư 08/2013/TT-BCT  ngày 22/4/2013 quy định chi tiết về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

    [5] https://trungtamwto.vn/fta/175-cptpp-/1, truy cập ngày 17/7/2023.

    [6] https://trungtamwto.vn/fta/199-viet-nam--eu-evfta/1, truy cập ngày 17/7/2023.

    [8] Khoản 2 Điều 23 Nghị định 09/2018/NĐ-CP.

    [9] Biểu đồ số 16, Báo cáo hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế năm 2022 của Ủy ban cạnh tranh Quốc Gia, Bộ Công thương, xem thêm tại http://www.vcca.gov.vn/?page=document&category_id=fbbfe778-8b8d-451b-bcc4-a95e3cf603a6¤t_id=976301fd-7580-4761-8e5c-26806bed0647, truy cập ngày 17/7/2023.