Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài, việc yêu cầu cơ quan giải quyết tranh chấp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một tùy chọn mà các bên tham gia tranh chấp có thể sử dụng trong trường hợp cần thiết. Mặc dù yêu cầu này không gây ảnh hưởng đáng kể đến quá trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài và quy trình tố tụng vẫn được tiến hành như thường lệ. Tuy nhiên, một trong những vấn đề đặt ra là liệu thẩm quyền của Tòa án có đang hạn chế thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hay không khi cả hai cơ chế giải quyết tranh chấp đều có thẩm quyền song song trong việc giải quyết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự? Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung đề cập về thẩm quyền đồng thời của Tòa án và Trọng tài khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thẩm quyền của Tòa án và Trọng tài trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trước tiên, cần lưu ý rằng Luật Trọng tài thương mại 2010 (“Luật TTTM 2010”), Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP và Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 (“BLTTDS 2015”) đều không cung cấp định nghĩa cụ thể về biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thay vào đó, các văn bản này quy định theo hướng liệt kê các biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể (06 biện pháp). Cách quy định này có thể được hiểu là đang hạn chế thẩm quyền của Hội đồng trọng tài (“HĐTT”) trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, khi chỉ cho phép thực hiện các biện pháp được liệt kê tại khoản 2 Điều 49 Luật TTTM 2010. Đồng nghĩa với việc HĐTT không có quyền tự định đoạt áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ngoài những biện pháp đã được quy định sẵn trong các văn bản pháp lý hiện hành. Do đó, nếu phát sinh yêu cầu của một trong các bên tranh chấp nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của HĐTT, việc áp dụng BPKCTT sẽ được hỗ trợ bởi Tòa án và phải được yêu cầu bởi bên tranh chấp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ hai, về thời điểm yêu cầu áp dụng BPKCTT, khoản 1 Điều 48 Luật TTTM 2010 đã có điểm tiến bộ hơn Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 khi cho phép một trong các bên trong tranh chấp được yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án áp dụng BPKCTT ngay từ thời điểm bắt đầu quá trình tố tụng và theo hướng dẫn của Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP thì thời điểm một trong các bên trong tranh chấp được gửi yêu cầu áp dụng BPKCTT ngay sau khi nộp đơn khởi kiện tại Trọng tài[1].
Tuy nhiên, để các BPKCTT có thể được áp dụng bởi trọng tài, điều kiện tiên quyết là HĐTT phải được thành lập để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp thời điểm tố tụng trọng tài đã bắt đầu nhưng HĐTT chưa được thành lập, bên yêu cầu nộp đơn lên Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu hỗ trợ áp dụng BPKCTT mặc dù thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về trọng tài. Khi đó, sự hỗ trợ từ Tòa án sẽ đảm bảo rằng BPKCTT được thực hiện một cách nhanh chóng và kịp thời, đáp ứng yêu cầu cấp bách của biện pháp này nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên trong tranh chấp.
Trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật TTTM 2010, thẩm quyền của Tòa án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là căn cứ loại trừ thẩm quyền của HĐTT, bởi lẽ, sự hỗ trợ của Tòa án được xem xét trên căn cứ yêu cầu của một trong các bên trong tranh chấp. Do đó, việc yêu cầu Tòa án hỗ trợ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Mục đích của cơ chế này nhằm bảo đảm cho tố tụng trọng tài được thực thi trên cơ sở hỗ trợ của Tòa án - cơ quan quyền lực nhà nước mang tính cưỡng chế thi hành.
Khi đó, Tòa án có thẩm quyền can thiệp hoặc hỗ trợ ban hành quyết định áp dụng BPKCTT, nhất là trong một số trường hợp, quyết định áp dụng BPKCTT của trọng tài đối với bên thứ ba không thực sự hiệu quả. Không như pháp luật tố tụng dân sự, HĐTT không có thẩm quyền cưỡng chế áp dụng BPKCTT đối với bên thứ ba. Bên cạnh đó, về nguyên tắc không được áp dụng song song BPKCTT bởi Tòa án và HĐTT nếu một bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải từ chối áp dụng các BPKCTT theo quy định tại khoản 3 Điều 49 Luật TTTM 2010. Chẳng hạn, những trường hợp đối tượng tranh chấp là nhà xưởng thuộc sở hữu của bên tranh chấp liên quan đến hợp đồng thuê giữa các bên nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng bên cho thuê đã thế chấp tài sản tại ngân hàng thương mại nhưng không thông báo cho bên thuê. Tranh chấp phát sinh, bên thuê khởi kiện tại tổ chức trọng tài như thỏa thuận trong hợp đồng nhưng khi nhận thấy tài sản tranh chấp có nguy cơ bị chuyển nhượng cho một bên khác trước khi HĐTT thì bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp “kê biên tài sản đang tranh chấp”. Nếu tại thời điểm HĐTT đã được thành lập cũng nhận được yêu cầu áp dụng BPKCTT từ một bên thì phải từ chối yêu cầu này. Thêm vào đó, yêu cầu áp dụng BPKCTT đối với HĐTT thì khả năng thực thi trên thực tế có thể gặp nhiều trở ngại vì bên nhận thế chấp là ngân hàng không phải đương sự trong vụ tranh chấp này và quyết định của HĐTT không có hiệu lực bắt buộc đối với bên thứ ba. Xuất phát từ tinh thần đó, việc yêu cầu Tòa án ban hành quyết định áp dụng BPKCTT không bị xem là trái với thỏa thuận trọng tài đã được xác lập[2] và thỏa thuận trọng tài không bị vô hiệu hóa do thẩm quyền giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT của Tòa án trong trường hợp cần thiết.
Tuy nhiên, quy định này cũng dấy lên một vấn đề đáng lo ngại rằng, kỹ thuật lập pháp này sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến tính độc lập của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và sự chồng lấn về thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp hỗ trợ giải quyết tranh chấp như BPKCTT vì Tòa án cũng có thẩm quyền tương tự. Trên thực tế đã không ít trường hợp, phát sinh sự chồng chéo về thẩm quyền áp dụng đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT.
Thực tiễn vướng mắc về thẩm quyền của HĐTT
Mặc dù hệ thống pháp luật hiện nay đã được điều chỉnh theo hướng cho phép HĐTT ban hành quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT song song với Tòa án, nhưng trên thực tế vẫn tồn tại một số vướng mắc cần được gỡ bỏ. Đáng chú ý, Trọng tài và Tòa án có cách hiểu và vận dụng không giống nhau về quy định BPKCTT. Thêm vào đó, tính linh hoạt và tùy nghi trong việc áp dụng BPKCTT tại Trọng tài có thể ảnh hưởng đến tiến trình giải quyết tranh chấp vì sự không rõ ràng đối với những yêu cầu mang tính cấp thiết.
Bất cập đầu tiên có thể kể đến nằm ở việc HĐTT gặp phải nhiều hạn chế về loại BPKCTT được áp dụng so với pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT ngoài phạm vi được liệt kê tại khoản 2 Điều 49 Luật TTTM 2010, về nguyên tắc, HĐTT phải từ chối áp dụng. Giới hạn về loại BPKCTT theo thẩm quyền của HĐTT không chỉ gây trở ngại cho quy trình pháp lý mà còn có thể khiến các trường hợp khẩn cấp không được kịp thời giải quyết. Từ đó, đặt ra cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài được áp dụng BPKCTT thuộc thẩm quyền của trọng tài trên cơ sở Điều 53 Luật TTTM 2010 và khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP. Khi đó yêu cầu áp dụng BPKCTT của bên yêu cầu chỉ có thể được Tòa án hỗ trợ giải quyết khi:
- Yêu cầu của một bên trong tranh chấp nằm ngoài thẩm quyền của HĐTT; hoặc
- Trường hợp bên yêu cầu đề nghị áp dụng nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng lúc mà HĐTT không có thẩm quyền đối với biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
Bất cập thứ hai cần được xem xét liên quan đến thẩm quyền của HĐTT áp dụng BPKCTT đối với bên thứ ba, theo đó HĐTT không có thẩm quyền để ban hành quyết định áp dụng BPKCTT đối với bên thứ ba không thuộc thỏa thuận trọng tài. Do đó, các yêu cầu này thường phải được đưa ra trước Tòa án để yêu cầu áp dụng. Cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có bất kỳ một hướng dẫn nào về thẩm quyền của HĐTT đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT cho bên thứ ba cũng như văn bản hướng dẫn về quy định tại khoản 3 Điều 49 của Luật TTTM 2010. Hay nói cách khác, hiện vẫn tồn tại quan điểm rằng HĐTT không thể áp dụng BPKCTT đối với bên thứ ba không tham gia trong tranh chấp vì đặc trưng của phương thức giải quyết này. Do đó, thẩm quyền của Toà án trong trường hợp này được vận dụng như một cơ chế hữu hiệu trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài nói chung và áp dụng BPKCTT nói riêng cho đến khi có sự điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật liên quan hay hướng dẫn từ cơ quan có thẩm quyền.
Cần có cơ chế mở rộng thẩm quyền của Trọng tài áp dụng BPKCTT trước và sau khi HĐTT được thành lập
Theo Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP, các bên trong tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT ngay sau thời điểm nộp đơn yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, ở thời điểm này ưu tiên, hướng lập pháp dường như đang ưu tiên cho Tòa án áp dụng BPKCTT do pháp luật hiện hành chưa quy định rõ ràng về quyền yêu cầu chỉ định trọng tài viên để giải quyết vấn đề này khi HĐTT chưa được thành lập. Trong trường hợp HĐTT chưa được thành lập và trường hợp khẩn cấp phát sinh, việc gửi yêu cầu áp dụng BPKCTT tới Tòa án là khả năng duy nhất để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của các bên tranh chấp mà không vi phạm thỏa thuận trọng tài. Ngược lại, khi HĐTT đã được thành lập, việc gửi yêu cầu này không gặp nhiều trở ngại và đã được quy định rõ trong Luật TTTM 2010. Phải chăng, sẽ là thoả đáng nếu đặt ra vấn đề về thẩm quyền của trọng tài viên được chỉ định giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT trước thời điểm HĐTT chính thức được mà không cần sự hỗ trợ của Tòa án quốc gia.
Tham khảo tinh thần pháp luật quốc tế, Điều 42(f) Quy tắc Trọng tài của Viện Trọng tài Hà Lan (NAI) cho phép Viện Trọng tài nhanh chóng chỉ định một trọng tài viên để giải quyết các vấn đề liên quan đến BPKCTT mà không cần sự hỗ trợ của Tòa án. Tương tự, các quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) và Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) cũng cho phép trọng tài viên có quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT trong bản sửa đổi quy tắc trọng tài gần nhất[3]. Hướng quy định như vậy cho phép Trọng tài giải quyết yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn mà không phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Toà án địa phương. Do đó, một giải pháp nên được cân nhắc là thiết lập cơ chế cho phép HĐTT ban hành quyết định áp dụng BPKCTT mà không cần sự can thiệp của Tòa án bằng cách quy định rõ quyền hạn của HĐTT ngay từ giai đoạn đầu của quy trình trọng tài hoặc chỉ định trọng tài viên để giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT, đặc biệt khi có yêu cầu tính khẩn cấp.
Khi thẩm quyền của trọng tài đã được mở rộng hơn trong việc áp dụng BPKCTT, trách nhiệm của HĐTT và trọng tài viên cần được đặt ra trong trường hợp áp dụng sai BPKCTT hiện dừng ở việc người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường. Cơ chế bồi thường này không được mặc nhiên áp dụng cho thiệt hại phát sinh từ quyết định của HĐTT/ trọng tài viên gây ra mà phải thông qua quá trình khởi kiện tại Tòa án như một vụ kiện thông thường. Do đó, nhằm nâng cao tính khả thi và trách nhiệm của HĐTT, thiết nghĩ việc xem xét yêu cầu bồi thường, trước hết nên được trực tiếp giải quyết bởi chính HĐTT, trong trường hợp, bên bị thiệt hại chưa được giải quyết thỏa đáng có thể khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu xem xét lại.
Tòa án và trọng tài là hai cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập, dẫu rằng sự hỗ trợ của Tòa án là cần thiết song với những bất cập về điều kiện áp dụng, thời hạn giải quyết yêu cầu mang tính tạm thời và cấp thiết, việc triển khai BPKCTT của HĐTT trên thực tế gặp nhiều khó khăn là khó tránh khỏi. Với cơ chế bảo đảm thi hành quyết định BPKCTT được ban hành bởi HĐTT theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự, cần thiết phải có sự điều chỉnh trong quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc áp dụng BPKCTT và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Những đề xuất trên không chỉ hướng đến việc hoàn thiện quy trình trọng tài mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch và công bằng trong giải quyết tranh chấp thương mại.